Ảnh minh họa |
Nhìn hắn, và nghe giọng hắn – ai cũng có cảm giác là hắn không quan tâm tới bất kỳ điều gì! Không thể gần gũi, thân thiết – với bất cứ ai. Nó trơn trụi như mặt một tản đá. Có lẽ, ngay cả khi đối diện với người mà hắn cho là đã yêu thương cũng thế chăng? (Hay với vợ và đứa con gái duy nhất của hắn bây giờ?). Hắn tỏ ra cách xa mọi người – như một kẻ từ trên cao nhìn xuống, cách biệt – coi thường. và không hề tỏ ra quan tâm tới ai cả! Vậy mà – không biết sao, hắn vẫn thường nói nhiều về những đứa con gái mê hắn, theo hắn một cách khó hiểu? Và, có một điều mâu thuẫn khó hiểu nữa, là hắn lại thường moi tìm mọi chỗ để chê trách người chung quanh cho dầu đó là những điều mà không ai thấy, không ai quan tâm. không là chuyện gì khác thường để quan tâm? Và, hắn thường tỏ ra hãnh diện – (được nhận thấy trên khuôn mặt trơn tru lạnh ngắt bổng căng ra) - vì đã làm điều khác mọi người!
Không ai biết hắn đã học hành tới đâu – có loại bằng cấp gì, nhưng chỉ biết rõ là hắn đang là anh công chức ở một cơ quan tài chính của tỉnh sắp nghỉ hưu. Vậy mà – hắn thường bàn về văn học thế giới (về tôn giáo, về các ý thức hệ… ) – thường bắt đầu bằng câu hỏi: “ Cậu đã đọc Enest Hemingway. Erich Maria Remarque, Leon Tólstoi. Stefan Zweig, Súsean Donovan, hay Kalei Florder, Jennifer Crusie (..) chưa?”. Và, như một người sành thạo – thỉnh thoảng, hắn chêm một câu tiếng Pháp vào giữa câu nói – không ăn nhập gì đến câu chuyện.
Lúc không thể chắp vá lại được các kiến thức vụn vặt không đâu vào đâu của các tác giả nước ngoài ấy – hắn bèn đọc dăm ba bài thơ của hắn để minh chứng cho cái tài năng văn học ít ai có thể đạt tới ở xứ này. Ví dụ 4 câu hắn thường hiu hiu goi là “tuyệt tác” trong loại thơ tứ tuyệt, sánh ngang hàng thơ Lý Bạch, Đỏ Phủ đời Đường:
“ Áo em trắng phủ mờ sương lạnh
Che lấp đời ta giữa tháng đông
Phố thị buồn tênh chiều tiễn biệt
Anh buồn da diết cõi hư không”
Che lấp đời ta giữa tháng đông
Phố thị buồn tênh chiều tiễn biệt
Anh buồn da diết cõi hư không”
Tóm lại , trước hết - người nghe thơ của hắn có chung một cảm nhận là sự ngạc nhiên đến lạ lùng, vì tìm mãi trong ý thơ của hắn, không có chút dính dáng gì đến con người hắn cả! Lạ lùng đến nỗi – họ nghĩ, hắn có thể copy ý thơ, lời thơ của ai? Giữa thơ và người, là một sự mâu thuẫn ghê sợ. Dạo này, thơ không biết ở đâu mà lại bay đi tràn lan – có kẻ tự hào, một ngày làm đến năm bảy bài thơ các loại. từ thơ tình đến thơ thế sự, xã hội, tôn giáo…Người ta thấy hắn làm thơ đề tặng cô này cô nọ - chịu khó nghe đọc, để tìm sự thích thú trong cái ngạc nhiên lạ lẫm lúc ngồi ở quán café, quán nhậu - chứ không phải là cảm nhận của thi ca. Thi ca không có mặt, không tồn tại trong sự ngụy tạo dối lừa mình, phỉnh gạt người!
Hết đọc thơ, hắn than: “Trong máy điện thoại của mình tái khoản có luôn trên máy mấy trăm ngàn mà có bao giờ dùng đâu?”. Giọng hắn nhỏ, đều đều – rè rè – tưởng như nói với chính hăn: “Ở trong cái thành phố này, mình cô độc lắm! Cô độc và buồn bã ngay trong cái nhà của mình nữa trong bao nhiêu năm trời!”. Rồi hắn nhắc tên người này người nọ (trong và ngòai nước) đã gởi cho hắn tiền để trả khoản nợ vỡ hụi của vợ hắn lên đến mấy trăm triệu không biết bao nhiêu lần. Hắn tỏ ra thất vọng kể về mấy nhân vật mà hắn cho là “khó ưa” trong cùng cơ quan dã không thể “chơi” được; không hề nhận ra “tài năng đa dạng” của hắn trong mấy chục năm trời, mà cũng chẳng hề bỏ ra xu nào trong lúc gia đình hắn khốn đốn vì nợ kêu réo! Ngồi nghe hắn, ai cũng thấy rất rõ có một điều dễ nhận ra mà hắn không hề nhìn thấy - là suốt bao năm, có thấy hắn tỏ ra “ưa” thật lòng ai đâu – mà ai đem lòng ưa hắn? Chẳng lẽ trong bao nhiêu con người chung quanh đời hắn ( ngay những người thân, vợ và con) – không có được một vài người để hắn tin tưởng, yêu thương? Người ta cũng thắc mắc: “ Vậy mà hắn cũng cưới được vợ mới là điều lạ!”.
Bất cứ gặp người quen ở đâu (quán café, trong đám giỗ, tiệc cưới, hay bên hè đường) – với giọng sắc nhỏ, nhát gừng. lạnh băng – chui ra từ chiếc miệng khin khít hai hàm răng – hắn quở trách người này, kẻ kia ( vì chuyện này chuyện nọ) mà người nghe biết rất rõ là hắn chỉ biết lỏm bõm trong các vấn đề này!
Không hiểu vì lý do nào, bổng nhiên hắn bỏ cơ quan – đi đâu mất biệt gần tháng trời sau khi đến tòa ký vào giấy xin ly hôn của vợ. Nhiều tin đồn đãi về hắn trong lức căn nhà được tòa đem ra bán đấu giá để trả nợ cho chủ. Nhiều người nghĩ rằng, ngôi nhà trong con hẻm nhỏ - không phải là cái lý do chính để hắn bỏ đi, nhưng không ai hiểu gì thêm. Người ta chỉ thấy vợ hắn cùng đứa con gái đang học lớp 12 phải ra thuê một căn phòng của ngôi nhà cấp bốn nhiều phòng, được dựng lên trên khu đất khá rộng vốn là vườn cây ngoại ô, để cho học sinh, sinh viên, hay cán bộ nghèo thuê tạm.
Còn hắn, sau khi về lại cơ quan xin được cho về nghỉ hưu vì lý do sức khỏe trước thời hạn - vội vã mang túi xách ra đi. Như chạy trốn. Đứng bên đường đón xe khách Bắc –nam, hắn cứ chốc chốc thò tay vào túi áo. lấy chiếc máy điện thoại di động - bấm máy, thoáng nhìn vào máy rồi cất vào túi. Không rõ hắn muốn xem giờ, coi tin nhắn, hay muốn gọi cho ai? Mấy trăm ngàn trong tài khoản có của máy chắc vẫn còn nguyên như cũ?
Sau nhiều tháng ngày lêu bêu, lang bạt đó đây – hắn không còn tiền để thuê được một căn phòng trọ rẻ mạt nhất ở khu bến xe, hay xóm chợ ngoại ô. Một buổi chiều, người ta thấy hắn đi mãi miết ra vùng quê xa thành phố đến hơn mười cây số. Phía trước hắn là con đường dẫn lên con xóm lác đác vài ngôi nhà tranh, nhà lá – phía xa là chân đồi, ngọn núi mờ nhạt như bức tranh nhòe.
Hắn cứ đi. Không hề thấy quay đầu nhìn lại…
Cuối cùng, khi mặt trời đã nằm gần kề dãy núi phía tây bên trái con đường mòn – hắn cũng nhìn thấy được mái ngói rêu phong của ngôi chùa mà bà chủ phỏng trọ đã nói với hắn lúc sáng. Ngôi chùa có tên “ Linh Phong Tự”.
Hắn khẻ đẩy cánh cửa cổng chưa được cài then – lách mình vào, toàn thân như chiếc bong bóng bị xẹp. Hắn bước nhè nhẹ từng bước vào khoảng sân đất đầy lá khô. Tiếng khua – dù rất khẻ, cũng đôi lần khiến hắn hoảng hốt, dừng lại.
Từ chiếc cửa chánh điện khép hờ, hắn nhìn thấy vị sư già ngồi bất động, như một pho tượng. Hắn tựa cửa, đứng nhìn – chờ đọi. Mỏi mệt, hắn ngồi dựa vào vách tường phía trước. Chờ đợi.
Không rõ mấy giờ đã trôi qua mà hắn không hề nghe thấy một tiếng đọc kinh nhỏ - hay một âm thanh nào – ngoài tiễng muối vo vo mỗi lúc một nhiều.
Hắn ngồi yên như vậy.
Và ngủ...
Tiếng vị sư vang lên như tiếng sấm làm hắn giật mình, đứng bật dây như con robot được bấm nút. Hai tay chắp trước ngực – trân tráo nhìn vị sư qua ánh đèn nến leo lét ông đang cầm trên tay. Có lẽ, trong cuộc đời của hắn – đây là lần đầu tiên đôi mắt sâu. nhỏ của hắn đã mở lớn đến vậy?
- Ta biết con sẽ đến đây từ khi con bắt đầu rời thành phố…
- Dạ…
- Ta đã tự ra mở cánh cửa chùa, bỏ hờ đó – sau khi chú Thiện Trí đã khóa.
- Dạ..
- Những điều con muốn tìm không có ở đây đâu!
- Dạ…
Khi vị sư gìà chớm bước đi – hắn òa lên khóc : “ Thầy ơi! Vậy con phải tìm ở đâu?”
- Trong con chưa hề có chút gì con muốn tìm cả, thầy cũng không giúp gì con được – Vị sư quay lưng, lặng lẽ bước đi.
- Thầy ơi!
- Gì vậy?
- Thầy ơi! Con khổ lắm!
- Thầy biết! – giọng vị sư già ôn tồn, kẻ nào đã làm cho đời con khổ như sa vào vũng lầy vậy?
Hắn im lặng.
Đứng yên như một thân cây.
Nước mắt hắn cứ chảy tràn qua mặt – nhỏ xuống giọt giọt, mỗi lúc một nhanh.
Vị sư bước đi vài bước – chợt quay lại: “ Con có lúc nào được khóc như vậy chưa?”
- Thưa, chưa…
- Vậy hãy đứng yên mà khóc đi, nhé? Những giọt nước mắt sẽ chỉ cho con thấy điều con muốn tìm đó, con ạ!!
- Dạ..
Tiếng vị sư già vang lên như tiếng chuông:
- Rồi con sẽ tự vượt ra khỏi vũng lầy, và thấy điều con muốn tìm là không xa…
Mang Viên Long