(1/6/1941 - 8/3/2011) |
Phạm Công Thiện là một thiên tài. Về học hành, ông không tốt nghiệp một trường đại học nào. Thậm chí, mảnh bằng tú tài cũng không có. Nhưng, với tài năng và tác phẩm của mình, Phạm Công Thiện được mời dạy ở một số trường đại học trong và nước ngoài. Từ năm 1966 đến 1970, Phạm Công Thiện giảng dạy và làm khoa trưởng khoa Văn học và Nhân văn của đại học Vạn Hạnh (Sài Gòn). Phạm Công Thiện là một trong những người sáng lập và điều hành tạp chí "Tư tưởng" của đại học Vạn Hạnh. Năm 1970, làm giáo sư triết học phương Tây của trường đại học Toulouse (Pháp). Năm 1983, làm giáo sư Phật giáo viện College of Buddhist Students ở Hoa Kỳ. Từ đó đến nay Phạm Công Thiện lúc thì sống ở Hoa Kỳ, lúc thì sống ở Úc, tiếp tục viết sách. Phần lớn tác phẩm của ông là nghiên cứu về Phật giáo.
Cuộc đời Phạm Công Thiện có những dị thường hơn người. Từ một tín đồ Thiên Chúa giáo, đến năm 1964, ông trở thành thầy chùa với pháp danh Nguyên Tánh. Năm 1970, sống tại Pháp, Phạm Công Thiện cởi bỏ áo cà sa, lấy vợ- một người theo đạo Cơ Đốc.
Trong tác phẩm của mình, Phạm Công Thiện đã phủ nhận và lên án các triết gia và các học thuyết từ thời cổ đại đến hiện đại. Có lúc, Phạm Công Thiện còn nặng lời phủ nhận cả Đức Phật Thích Ca và Đức Chúa Giêsu. Cuộc sống Phạm Công Thiện đầy những mâu thuẫn. Phải chăng cuộc đời của thiên tài Phạm Công Thiện gặp nhiều bi kịch: Bi kịch chiến tranh của đất nước, bi kịch của gia đình, bi kịch của bản thân. Từ đó, bùng vỡ ý thức phản kháng thể hiện trên tác phẩm của mình. Nhiều người gọi Phạm Công Thiện là triết gia. Nhưng Phạm Công Thiện chưa bao giờ nhận mình là một triết gia cả. Phạm Công Thiện thường tự nhận mình là nhà thơ. Năm 1966, tập thơ "Ngày sinh của rắn" của Phạm Công Thiện phát hành đầu tiên tại Pháp. Đến năm 1967 được tái bản và phát hành tại Việt Nam. Năm 1988 được tái bản lần nữa và phát hành tại Hoa Kỳ. Đến năm 2000, Phạm Công Thiện cho ra đời tập thơ thứ hai với tựa đề "Trên tất cả đỉnh cao là im lặng" tại Hoa Kỳ, đến năm 2009 được tái bản và phát hành rộng rãi tại Việt Nam.
Phạm Công Thiện quan niệm: "Thơ ca bí nhiệm như một tôn giáo. Thơ ca làm cho chúng ta luôn mơ mộng và suy tư". Trong thơ, Phạm Công Thiện không còn vẻ phản kháng, ngông nghênh như trong các tác phẩm biên luận, phê bình, triết học hay tùy bút. Thơ Phạm Công Thiện mới lạ, mỗi bài là một nét riêng, chuyên chở ý tưởng, cảm xúc, tràn ngập những cung bậc tình cảm đầy tha thiết, đưa người đọc vào những khám phá mới, bắt gặp những sắc màu mông mênh hư ảo:
"mười năm qua gió thổi đồi tây tôi long đong theo bóng chim gầy một sớm em về ru giấc ngủ bông trời bay trắng cả rừng cây gió thổi đồi tây hay đồi đông hiu hắt quê hương bến cỏ hồng trong mơ em vẫn còn bên cửa tôi đứng trên đồi mây trổ bông gió thổi đồi thu qua đồi thông mưa hạ ly hương nước ngược dòng tôi đau trong tiếng gà xơ xác một sớm bông hồng nở cửa đông". (Trích trong tập thơ "Ngày sinh của rắn") |
Thơ Phạm Công Thiện còn chứa đựng triết thuyết của Đức Phật. Một tiếng chim hót ngang trời bi thương, chứa đựng lẽ vô thường của vạn vật:
Hồi chuông chùa vọng luân hồi
Chim Chiền Chiện hót ngang trời đau thương
Trùng dương nằm đợi vô thường
Đồi cao bạt gió hai đường âm u"
Phạm Công Thiện có những bài thơ rất ngắn nhưng chứa đựng cả không gian và thời gian:
"Mưa chiều thứ Bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông"
(Trích trong tập thơ "Ngày sinh của rắn")
Chính bài thơ chỉ có hai câu thơ này đã tạo cảm xúc cho nhà văn Võ Hồng viết truyện ngắn "Hoa khế lưng đồi" được nhiều người đọc yêu thích.
Trong tập thơ "Ngày sinh của rắn", Phạm Công Thiện viết những bài thơ với ngôn từ kỳ lạ, khác thường. Vừa gần gũi, vừa xa lạ với cuộc sống đời thường, mang vẻ dung tục lại đầy bí hiểm:
"tôi chấp chới đắng giọng giữa tháng ngày mơ mộng nốt ruồi của hương hay nốt ruồi của rigvéda tôi mửa máu đen trên nửa đêm Paris tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ mặt trời có thai! Mặt trời có thai! Sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt" |
Năm 1980, Phạm Công Thiện cho ra đời bài thơ "Trường giang Mỹ Tho" với lời thơ mới mẻ, ý thơ sâu sắc. Bài thơ gần với hơi thở của một trường ca. Đây là bài thơ đẹp của Phạm Công Thiện. Nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã xếp bài thơ "Trường giang Mỹ Tho" vào những bài thơ hay nhất của nền thi ca Việt Nam hiện đại:
"...Thôi nôi con trường giang mọi rợ tôi mọi mãi mỗi trường an con diều hâu chạy bắt con chim con chim lòn qua kẽ núi lọt ra gió Hải Nam thổi hiu hắt về Trường Sơn nước Trường Giang mẹ ru chim ngủ con lớn khôn rồi bỏ mẹ bay xa Cha con già Trường Sơn con ơi trường giang đi chảy mãi nửa đời trường sơn già ngồi đứng hứng mưa mưa đi từ dưới chân đỏ bồ câu thượng thủy Tây Hồ con lớn khôn rồi quên đất quên sông con sông nào Cửu Long chảy từ thượng tứ Mỹ Tho buồn thây chết trôi sông Súng nổ bên cầu quay Mẹ bồng con đóng cửa Lính Tây dương đang say rượu giao thừa Bông cúc vàng đầy sân ướt máu Ba con già con trẻ đi xa Súng nổ trên mái lầu Nhà cháy bên hông Mấy dì con chơi tứ sắc Con còn nhỏ quá con ơi (Trích bài thơ "Trường giang Mỹ Tho") |
Viết về tình yêu, Phạm Công Thiện viết với một tâm hồn chân thật, đầy cảm xúc, âm điệu nhẹ nhàng gợi cho chúng ta một nỗi niềm cô đơn, xa vắng:
"cô đơn về trắng sương rừng anh nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm khuya buồn tủi nhục môi em mưa run lặng lẽ trên thềm bơ vơ tiếng em vàng xuống đôi bờ hoang vu anh đứng đợi chờ chim kêu tay gầy ôm chặt tình yêu anh về phố gục những chiều hư vô đời đi trên những nấm mồ đau thương em hát cơ hồ khăn tang phố chiều tôi bước lang thang như con sông nhỏ mơ màng biển xanh nửa đêm khói đốt đời anh yêu em câm lặng như cành thu đông đời em như một dòng sông đôi bờ anh đứng giữa lòng hoa niên mưa chiều nước chảy triền miên một con chim dại lạc miền hoang lương về đâu thương những con đường lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa" (Bài thơ "Ca sĩ") |
Qua thơ, Phạm Công Thiện như "một con chim lạ lạc miền hoang lương". Con chim kỳ lạ ấy từ biển lớn đã bay qua những cánh đồng mênh mông bát ngát của miền châu thổ Cửu Long giang, bay qua những đỉnh núi cao lộng gió giữa trời, hát lên những khúc ca kinh động cả đất trời ngân vọng mãi đến ngàn sau .
Phạm Công Thiện, Con chim lạ lạc miền hoang lương
Lê Ngọc Trác
Lê Ngọc Trác